Bản làng sau tiếng kẻng đêm – câu chuyện của Mùa A Thi

Người xem: 1700

Lâm Trực@

Tháng Tám, Hà Nội vàng ươm nắng. Trong hội trường lớn của Hội nghị toàn quốc về công tác dân tộc, giữa những bộ vest chỉnh tề và tiếng máy ảnh lách tách, có một chàng trai mặc áo chàm ngồi im ở hàng ghế đầu. Mái tóc cắt gọn, gương mặt rám nắng. Khi anh đứng lên, tiếng nói chậm, trầm, như một dòng suối nhỏ chảy từ xa về, mang theo hương khói bếp, mùi ngô nướng và mùi đất ẩm của núi. Đó là Mùa A Thi, Trưởng bản Háng Pu Xi – cái bản nằm nép dưới chân núi ở Điện Biên, quanh năm sương phủ.

Trưởng bản Mùa A Thi không giấu được sự xúc động khi có dịp gặp gỡ Thủ tướng Phạm Minh Chính tại Hội nghị. Ảnh: TTCP

Đêm lũ đầu tháng Tám, mưa dội xuống bản như ai trút nước từ trời. Gió rít qua những khe cửa gỗ, mái tôn rung lên từng hồi. Mùa A Thi thức giấc, ngửi thấy mùi bùn và mùi cây rừng bị xé nát. Anh biết lũ đang về. Không chần chừ, anh vác chiếc kẻng đồng, chạy ra giữa mưa, đánh liên hồi. Tiếng kẻng chát chúa giữa màn nước, gọi từng mái nhà, gọi cả những đứa trẻ còn say ngủ. Người này lay người kia, người lớn cõng trẻ con, dắt nhau men theo con đường lên cao. Chưa đầy mười phút sau, đất đá ập xuống, chặn kín lối vào bản. Nước cuốn đi những mái nhà gỗ như kéo những con thuyền giấy trôi trên dòng suối hung hãn.

Sáng hôm sau, Háng Pu Xi vẫn nguyên vẹn. Hai mươi mốt hộ, chín mươi con người, thoát khỏi cái chết trong gang tấc. Người già kể lại, họ chưa từng thấy đêm nào dài đến thế.

Bản ngày trước chỉ có con đường đất đỏ, nắng thì bụi, mưa thì lầy. Trẻ con đi học phải bấm chặt ngón chân vào đất. Thế rồi, một ngày, tiếng máy nổ vang khắp núi. Xe chở xi măng, cột điện, đường bê tông đã về. Điện sáng đến từng mái nhà, sóng điện thoại và Internet cũng vào bản. Người ta bảo: bản không còn ngủ trong bóng tối nữa.

Những đổi thay ấy đến từ Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nhưng như một người trên mạng đã viết: “Đường có thể lát xi măng, nhưng trái tim người trưởng bản phải lát bằng trách nhiệm.”

Trong hội nghị ở Hà Nội, Mùa A Thi nói, giọng anh hơi run nhưng rõ từng chữ: mong Đảng, Nhà nước giúp bà con vùng lũ di dời đến nơi an toàn, dựng lại nhà cửa, làm đường, cầu, điện, nước, hỗ trợ vốn, cây trồng, vật nuôi, đất sản xuất. Anh hứa sẽ công khai, minh bạch từng khoản hỗ trợ, vận động dân bản thay đổi cách nghĩ, áp dụng kỹ thuật mới, vừa phát triển kinh tế, vừa giữ rừng, giữ suối, giữ tiếng hát Mông.

Sau khi câu chuyện lan truyền, có người gọi anh là “người đánh thức cả bản”. Có người viết: “Giữa thời buổi nhiều kẻ lo giữ ghế hơn giữ dân, một trưởng bản biết cầm kẻng chạy trong mưa là của hiếm.”

Lũ đã để lại bùn ngập đến đầu gối, nhưng bùn sẽ khô. Lúa bị cuốn đi, nhưng lúa sẽ mọc lại. Điều còn ở lại là ký ức về đêm lũ, tiếng kẻng, bóng dáng người đàn ông chạy giữa màn mưa. Háng Pu Xi vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng từ đây, bản đã biết ngẩng đầu nhìn xa hơn chân núi. Và ở đó, Mùa A Thi vẫn bước đi chậm rãi, chắc chắn, như đang dắt cả bản làng qua những mùa lũ của cuộc đời.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *