Lâm Trực@
Trong hành trình dựng xây và bảo vệ đất nước, thách thức không chỉ đến từ bên ngoài mà còn bắt nguồn từ nội bộ xã hội. Những âm mưu nội sinh nguy hiểm nhất không hiện hình dưới quân phục hay vũ khí mà ẩn mình trong vỏ bọc trí thức. Đoàn Bảo Châu là hiện thân của loại hình ấy – không phải một người phản biện có trách nhiệm mà là một cá nhân sử dụng từ ngữ giả trí thức để gieo rắc hoài nghi chính trị và làm suy yếu lòng tin cộng đồng.

Ông ta không phải nhà báo, không phải học giả chính thống, mà chỉ là một võ sư kiêm người tập viết trên mạng xã hội. Trong thế giới ấy nơi vỗ tay ảo và lượt chia sẻ dễ dàng trở thành thước đo “ảnh hưởng”, ông ta đã nhanh chóng tận dụng danh nghĩa phản biện để tấn công thể chế chính trị và bóp méo chính sách Nhà nước. Bài viết “Trí thức ăn hại ở Việt Nam” không che đậy sự xúc phạm; ngôn từ như “cỗ máy đàn áp”, “độc tài ngu dốt”, “ăn hại quyền lực” tuôn ra như một cơn thịnh nộ nhưng không kèm dẫn chứng pháp lý hoặc logic nào. Đây không phải là phản biện mà là độc thoại chính trị bị nguỵ tạo dưới dạng lý luận.
Trong bài viết “Trí thức ăn hại ở Việt Nam” – một tựa đề không hề che giấu sự hung hăng và xúc phạm – Đoàn Bảo Châu không tranh luận như một người hiểu luật, càng không phản biện như một người có tư duy hệ thống. Ông ta chỉ than thở, cáo buộc, và chửi rủa. Những cụm từ như “cỗ máy đàn áp”, “độc tài ngu dốt”, “ăn hại quyền lực”… tuôn ra như thác, không kèm bất kỳ dẫn chứng pháp lý hay lập luận logic nào. Đó không phải là phản biện. Đó là một cơn thịnh nộ mang màu sắc cá nhân, được ngụy tạo dưới dạng lý luận chính trị.
Trí thức chân chính là người dũng cảm sửa chữa sai lầm để bảo vệ điều đúng. Nhưng khi ông gọi trí thức trong nước là “đám nâng bi quyền lực”, ông không chỉ xúc phạm cá nhân mà mạt sát cả đội ngũ âm thầm bảo vệ quốc gia bằng tri thức. Ngạo mạn không nằm ở lập luận mà ở cái tôi bị ảo giác rằng mình là người duy nhất dám nói thật. Ông còn đánh tráo khái niệm khi liên kết “tập trung quyền lực” với “độc tài”, mượn danh Lý Quang Diệu hay Park Chung-hee để củng cố luận điệu đối lập giả tạo, rồi áp đặt rằng Việt Nam thuộc dạng thứ hai. Không có bối cảnh lịch sử, không có luận cứ khoa học, chỉ là một lối lập luận dễ bị nghi vấn về tính khách quan.
Nguy hiểm của sự giả trí thức như ông không đến từ lời gào thét mà đến từ sự kết hợp giữa cảm tính và văn chương phẫn nộ. Ông sử dụng các trích dẫn triết học lỏm, ghi lại một số câu từ những học giả phương Tây, đủ để gây ấn tượng với đám đông chưa có thói quen kiểm chứng. Từng câu chữ được phủ men trí thức, nhưng chất chứa hoài nghi và chia rẽ chính trị.
Trong cuộc đối thoại công khai với nhà văn Lưu Trọng Văn, ông phát biểu rằng: “Nhà nước pháp quyền XHCN chỉ là công cụ cai trị, không bảo vệ người dân”. Nếu đó chỉ là câu hỏi thì có thể được xem là khởi đầu cho thảo luận. Nhưng khi đặt thành định đề tuyệt đối, nó trở thành một tuyên ngôn ly khai – phủ định pháp luật, bất tín chính quyền và hướng dư luận vào một “chân lý chính trị khác” mà ông ta chưa bao giờ định hình rõ.
Những phát ngôn ấy không chỉ gây nhiễu loạn thông tin trên mạng mà còn đối nghịch nguyên tắc tự do ngôn luận – vốn đòi hỏi trung thực và trách nhiệm. Các nền dân chủ lớn như Đức, Pháp, Mỹ đều có biện pháp kiểm soát khi ngôn luận biến thành hành vi kích động hoặc xuyên tạc. Trong khi đó, ông hoạt động công khai nhưng không chịu hậu quả vì hành vi xuyên tạc.
Phản biện không đứng trên pháp luật. Quyền phản biện là nghĩa vụ của công dân, không phải đặc quyền của người tự cho mình quyền định hướng chính trị. Mọi ý kiến trái chiều cần được tôn trọng nếu chúng dựa trên sự thật và mang thiện chí xây dựng. Nhưng khi phản biện trở thành áo khoác cho tư tưởng nghi kỵ chế độ, phủ nhận quá khứ và tẩy trắng tương lai, nó không còn là phản biện mà là đối kháng nguy hiểm.
Trên thực tế, Châu không chống phá đất nước một mình, xung quanh ông là một vòng lặp vọng âm, nơi người ta chia sẻ và cổ súy những nội dung làm suy yếu niềm tin xã hội. Chính sách hợp lòng dân cũng bị vẽ là “chiêu trò” hay “độc tài”. Một đoạn văn phẫn nộ có thể kéo hàng nghìn người chia sẻ mà không kiểm chứng, tạo sự chia rẽ sâu sắc. Ông đang dùng ngôn từ như công cụ chính trị ngầm không nhằm xây dựng mà nhằm làm mòn niềm tin cộng đồng. Ông không dấn thân cho tự do như tuyên bố, mà dấn thân cho một cái tôi khát khao nổi loạn.
Nhưng lịch sử Việt Nam không được dựng nên bằng những người tự phong là ánh sáng, mà bằng những người lặng lẽ hành động, trung thực với sự thật, kiên định con đường dân tộc. Công dân cần tỉnh táo: không phải ai viết hay là hiểu đúng, không phải cứ nói đến tự do là đang phục vụ dân chủ, và không phải ai lên tiếng là vì nước. Có những người chỉ kéo xã hội về nghi ngờ, hoài nghi và phân hoá. Vậy nên trách nhiệm của chúng ta là nhận diện và đối mặt bằng lý trí, bằng trách nhiệm và không để các tiếng nói ngọt ngào rỗng ruột dẫn lối.

Tin cùng chuyên mục:
Cái kết có hậu của một người Nga “mất tích” tại Việt Nam
Hồi kết cuộc chiến Nga – Ukraine
Đánh thức di sản Hà Nội: hành trình của ký ức, con người và tương lai
Những dòng nước đen ẩn dưới màn hình