Lâm Trực@
Trong thời gian gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện những bài viết mang giọng điệu “rửa mặt cho thực dân Pháp”, điển hình là bài chia sẻ của Lê Việt Đức. Bằng cách liệt kê hàng loạt công trình hạ tầng được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa – nào là cầu Long Biên, đường sắt xuyên Đông Dương, Nhà hát Lớn Hà Nội, thành phố Đà Lạt… – tác giả cố tình tạo ấn tượng rằng người Pháp đã “văn minh hóa” Việt Nam, còn người Việt sau 70 năm độc lập thì “không làm được gì ra hồn”. Nguy hiểm hơn, bài viết ấy tìm cách gieo rắc tâm lý tự ti, phủ nhận thành quả cách mạng, và hạ thấp ý nghĩa của độc lập dân tộc – một thủ pháp quen thuộc của những luận điệu chống phá tinh vi trên không gian mạng.

Nhưng lịch sử không phải là những tấm ảnh lưu niệm mang sắc vàng hoài cổ. Lịch sử là dòng sự thật – mà ở đó, mọi “thành tựu” của Pháp tại Đông Dương đều gắn liền với mục tiêu duy nhất: bóc lột thuộc địa để làm giàu cho chính quốc.
Paul Doumer, Toàn quyền Đông Dương (1897–1902), người được tác giả bài viết ca tụng, từng công khai tuyên bố trong bản kế hoạch “khai thác thuộc địa lần thứ nhất” rằng mục tiêu là: “Faire de l’Indochine une colonie d’exploitation se suffisant à elle-même et contribuant aux bénéfices de la France” – “Làm cho Đông Dương tự nuôi lấy mình và đóng góp lợi nhuận cho nước Pháp”. (Paul Doumer, L’Indochine française, Paris, 1903). Câu nói này đủ để bóc trần bản chất thực sự của mọi công trình mà người Pháp dựng lên tại Việt Nam: chúng được xây để vận chuyển tài nguyên, kiểm soát quân sự, và duy trì bộ máy cai trị, chứ không phải vì sự phát triển của dân bản xứ.
Cầu Long Biên, mà bài viết của Lê Việt Đức tâng bốc như “biểu tượng văn minh Pháp”, thực ra là cây cầu chiến lược nối vùng mỏ than Hòn Gai và các khu khai khoáng Thái Nguyên, Bắc Giang với cảng Hải Phòng để thuận tiện xuất khẩu khoáng sản sang Pháp. Tuyến đường sắt xuyên Đông Dương không phải để dân nghèo đi lại mà để vận chuyển hàng hóa, binh lính, và tài nguyên ra cảng.
Nhà hát Lớn Hà Nội, được coi là “biểu tượng văn hóa Pháp”, là nơi phục vụ giới thượng lưu người Âu và tầng lớp quan lại tay sai, trong khi 95% dân Việt khi đó mù chữ và không được phép đặt chân vào.
Thành phố Đà Lạt được quy hoạch không phải để người Việt hưởng thụ, mà để làm nơi nghỉ dưỡng cho giới chức Pháp tránh khí hậu nhiệt đới.
Đằng sau những công trình “đẹp đẽ” ấy là mồ hôi, máu và nước mắt của hàng chục nghìn lao phu người Việt bị bắt đi phu khổ sai, làm việc 12–14 giờ mỗi ngày trong điều kiện tồi tệ, không tiền công, không bảo hiểm. Nhiều tài liệu Pháp thừa nhận hàng nghìn người chết vì sốt rét, kiệt sức, tai nạn lao động.
Nhà sử học Pierre Brocheux, trong Histoire de l’Indochine française (2001), viết: “Le développement de l’infrastructure coloniale a été payé par le sang et les impôts des indigènes” – “Sự phát triển cơ sở hạ tầng thuộc địa được trả giá bằng máu và thuế của dân bản xứ.” Vậy mà hôm nay, có người lại lấy chính những di sản của áp bức đó để ca ngợi kẻ đi xâm lược – chẳng phải là một sự đảo lộn trắng đen nguy hiểm sao?
Còn chuyện “Pháp không khai thác được gì ở Việt Nam”, như tác giả kia khẳng định, là hoàn toàn sai sự thật. Theo Statistiques de l’Indochine (1939), chỉ riêng ngành than đá ở Hòn Gai, sản lượng xuất khẩu năm 1938 đã đạt hơn 2 triệu tấn, mang về hàng triệu franc lợi nhuận cho các công ty Pháp. Trong giai đoạn 1897–1939, hàng trăm ngàn hécta đất đai màu mỡ ở Nam Kỳ bị chiếm để lập đồn điền cao su, cà phê, chè, hầu hết thuộc sở hữu tư nhân Pháp như Michelin, Béhad, Société des Plantations d’Indochine… Nông dân Việt bị biến thành tá điền, làm thuê trên chính mảnh đất cha ông mình. Nếu Pháp “không khai thác được gì”, liệu họ có thể tồn tại gần một thế kỷ ở đây?
Còn câu so sánh rằng “Việt Nam sau 70 năm độc lập không làm được bằng Pháp trong 80 năm đô hộ” là một sự xúc phạm trí tuệ. So sánh đó chẳng khác nào đem 80 năm của một đế quốc công nghiệp đã tích lũy tư bản suốt nhiều thế kỷ, đối chiếu với 70 năm của một dân tộc vừa thoát khỏi chiến tranh, bom đạn, phong kiến, đói nghèo. Từ đống tro tàn của hai cuộc kháng chiến, Việt Nam đã xây dựng nên một đất nước độc lập, thống nhất, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế; GDP bình quân đầu người tăng hơn 40 lần so với năm 1986; tuổi thọ trung bình vượt 73; chỉ số phát triển con người (HDI) đứng đầu nhóm nước thu nhập trung bình thấp. Ở đâu trong lịch sử thuộc địa, người Pháp từng đem cho ta độc lập, dân chủ, quyền làm người như ngày nay?
Cần phải nói thẳng: cái mà thực dân Pháp để lại không phải là “công trình văn minh”, mà là một di sản bất bình đẳng, là một cấu trúc xã hội nô dịch, nơi một thiểu số giàu có sống xa hoa trên xương máu đại đa số bị bóc lột. Người Pháp mở trường học – nhưng chủ yếu để đào tạo thư ký, thông ngôn, công chức phục vụ bộ máy cai trị. Họ dạy chữ quốc ngữ không phải để khai sáng, mà để dễ kiểm soát dân chúng bằng ngôn ngữ mới do họ quy định. Họ đưa y tế vào Đông Dương, nhưng bệnh viện chỉ dành cho người Âu hoặc quan lại bản xứ.
Và quan trọng hơn cả: nếu thực dân Pháp “tốt đẹp” đến thế, vì sao nhân dân Việt Nam từ Bắc chí Nam lại vùng lên đấu tranh, chịu đòn roi, chịu tù đày, chịu chết để giành độc lập? Chẳng lẽ hàng triệu người đã hy sinh chỉ vì “hiểu nhầm” lòng tốt của kẻ đi xâm lược?
Những bài viết như của Lê Việt Đức không chỉ sai về lịch sử, mà còn nguy hiểm về chính trị: nó gieo vào lòng người đọc niềm tin lệch lạc rằng chế độ thuộc địa “văn minh hơn” chính quyền độc lập hiện nay; rằng “tự do dân tộc” là điều không cần thiết. Đó chính là cái bẫy tâm lý mà các thế lực thù địch luôn tìm cách gieo vào lòng giới trẻ Việt Nam – bằng cách biến sự tự ti thành sự tôn thờ ngoại bang.
Lịch sử không phủ nhận rằng Pháp đã xây dựng một số công trình có giá trị vật chất, nhưng đó là giá trị của nhà tù chứ không phải của tự do, của sự thống trị chứ không phải của khai hóa. Một dân tộc không thể được gọi là văn minh nếu cái “văn minh” đó dựng trên xương máu người khác. Và Việt Nam – dù còn nhiều khó khăn – đã đi con đường riêng của mình, bằng mồ hôi và trí tuệ của chính người Việt, để chứng minh rằng chúng ta không cần một kẻ đi xâm lược nào dạy mình cách trở thành con người.
Cuối cùng xin hỏi: Nếu Pháp đến để “khai hóa văn minh” thì tại sao có nạn đói làm hàng triệu người dân vô tội chết vào năm 1945 và vì sao toàn thể nhân dân Việt Nam từ Nam chí Bắc lại đồng loạt đứng lên đánh đuổi quân xâm lược Pháp?

Tin cùng chuyên mục:
Cái kết có hậu của một người Nga “mất tích” tại Việt Nam
Hồi kết cuộc chiến Nga – Ukraine
Đánh thức di sản Hà Nội: hành trình của ký ức, con người và tương lai
Những dòng nước đen ẩn dưới màn hình